Thanh Hóa thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018 trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường. Tăng trưởng thương mại toàn cầu đạt thấp do nhu cầu nhập khẩu của các quốc gia phát triển và hoạt động xuất khẩu của khu vực châu Á giảm. Giá dầu tăng cao, đồng đô la Mỹ biến động mạnh dẫn đến giá một số mặt hàng thiết yếu có xu hướng tăng trở lại. Căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn, nhất là chiến tranh thương mại giữa Mỹ - Trung ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với sự gia tăng xu hướng bảo hộ mậu dịch của các nước lớn, đặc biệt là những thay đổi trong chính sách thương mại của Mỹ đã tác động đến sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam và các nước trong khu vực.
Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ kết quả tích cực trong năm 2017, kinh tế - xã hội nước ta cũng đối mặt không ít khó khăn, thách thức: Lạm phát luôn tiềm ẩn nguy cơ tăng cao; tiến độ giải ngân đầu tư công đạt thấp; công nghiệp chế biến chế tạo có xu hướng tăng chậm lại; diễn biến thời tiết phức tạp. Đối với Thanh Hóa, năm 2018 có thuận lợi là dự án Lọc hóa dầu Nghi Sơn đã đi vào hoạt động, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế; song tỉnh ta vẫn còn những khó khăn riêng do tiến độ thực hiện của một số dự án lớn, trọng điểm chậm; thiên tai, bão lụt diễn biến phức tạp và gây thiệt hại nặng nề ở một số địa phương.
Trong bối cảnh đó, các cấp, các ngành trong tỉnh đã tập trung triển khai thực hiện quyết liệt, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra từ đầu năm nhằm tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường các hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư; tạo môi trường thuận lợi cho thành lập và hoạt động của doanh nghiệp. Nhờ đó, tình hình kinh tế - xã hội năm 2018 của tỉnh tiếp tục chuyển biến tích cực. Kết quả thực hiện các ngành, lĩnh vực cụ thể như sau:
1. Tăng trưởng kinh tế
Theo số liệu tính toán và công bố của Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa (GRDP) ước tính năm 2018 tăng 14,07% so với năm 2017; trong đó ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,55%; ngành công nghiệp, xây dựng tăng 21,66% (riêng công nghiệp tăng 29,33%); các ngành dịch vụ tăng 6,80%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 69,60%. Số liệu tính toán cơ bản dựa trên nguồn số liệu đầu vào do các phòng chuyên ngành của Cục Thống kê Thanh Hóa báo cáo, được các vụ chuyên ngành của Tổng cục Thống kê rà soát, thống nhất.
Đầu tháng Năm, Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn tiến hành chạy thử và có sản phẩm thương mại; ngày 15/11/2018, nhà máy chính thức vận hành thương mại và đạt 100% công suất thiết kế (200 thùng dầu thô/ngày). Căn cứ nguồn thông tin Cục Thống kê Thanh Hóa thu thập được từ báo cáo của Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn, báo cáo của các ngành chức năng có liên quan (Cục Hải quan và Cục Thuế Thanh Hóa) và phương pháp biên soạn chỉ tiêu GRDP của Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê Thanh Hóa đã tính toán và biên soạn lại số liệu GRDP năm 2018; cụ thể như sau:
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2018 theo giá so sánh năm 2010 ước tăng 15,16% so với cùng kỳ; trong đó ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,55%; ngành công nghiệp, xây dựng tăng 21,66% (riêng công nghiệp tăng 29,33%); các ngành dịch vụ tăng 6,80%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 97,86% (khu vực I, khu vực II, khu vực III giữ nguyên như số liệu tính toán và công bố của Tổng cục Thống kê; điều chỉnh số liệu thuế sản phẩm theo thông tin cập nhật mới đến thời điểm báo cáo). Trong 15,16% tăng trưởng của năm 2018, ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành công nghiệp, xây dựng đóng góp 8,13 điểm phần trăm (riêng công nghiệp đóng góp 7,21 điểm phần trăm); các ngành dịch vụ đóng góp 2,79 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đóng góp 3,79 điểm phần trăm.
Về cơ cấu kinh tế năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ trọng 15,98%, giảm 1,92%; ngành công nghiệp, xây dựng chiếm 39,51%, tăng 2,81%; các ngành dịch vụ chiếm 37,85%, giảm 3,67%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,66%, tăng 2,78% so với cùng kỳ năm trước.
GRDP bình quân đầu người năm 2018 theo giá hiện hành ước đạt 41,1 triệu đồng, theo USD đạt 1.815 USD.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
2.1. Nông nghiệp
a- Trồng trọt
Vụ đông 2017 - 2018 diễn ra trong điều kiện thời tiết, khí hậu không thuận lợi, do ảnh hưởng của bão số 10 trong tháng 9 và áp thấp nhiệt đới trong tháng 10 năm 2017 đã gây ra mưa lớn và ngập lụt ở nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh; diện tích nhiều cây trồng bị ngập úng, mất trắng, phải gieo trồng lại. Vụ chiêm xuân điều kiện thời tiết thuận lợi; các loại cây trồng sinh trưởng, phát triển tốt và ít sâu bệnh; riêng đối với cây lúa, từ đầu vụ gieo trồng đến khi thu hoạch thời tiết thuận lợi; bên cạnh đó, việc đưa thêm nhiều giống mới năng suất cao vào gieo trồng, kết hợp với việc chăm sóc của bà con nông dân nên phát triển khá đồng đều; đặc biệt ít xảy ra sâu bệnh trên diện rộng, nên năng suất lúa đạt cao nhất từ trước đến nay. Vụ thu mùa, diễn biến thời tiết phức tạp, gây bất lợi đến sản xuất, đầu vụ gieo trồng gặp các đợt nắng nóng kéo dài, tiếp đến là các đợt mưa lớn do ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới đã gây ra nhiều thiệt hại cho sản xuất, tại nhiều địa phương trong tỉnh, lúa bị ngập úng; ngô, mía bị đổ gãy; rau màu bị hư hại; đồng thời, do diễn biến thời tiết phức tạp, nên phát sinh nhiều sâu bệnh gây hại trên các loại cây trồng nói chung và cây lúa nói riêng.
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn tỉnh đạt 419,8 nghìn ha, đạt 97,4% kế hoạch, giảm 2,2% so với cùng kỳ; trong đó, vụ đông 46 nghìn ha, đạt 97,5% và giảm 8,6%; vụ chiêm xuân 208,8 nghìn ha, đạt 98,1% và giảm 1,6%; vụ thu mùa 165 nghìn ha, đạt 96,5% kế hoạch, giảm 1,1% so với cùng kỳ.
Năng suất một số cây trồng chính cả năm như sau: Lúa 57,8 tạ/ha, đạt 98,1% kế hoạch, giảm 1,0% so với cùng kỳ (giảm 0,6 tạ/ha); trong đó, vụ chiêm xuân 66,7 tạ/ha, vượt 3,1% kế hoạch, tăng 2,6% so với cùng kỳ, vụ thu mùa 49,3 tạ/ha, đạt 84,3% kế hoạch, giảm 5,4% so với cùng kỳ; ngô 43,6 tạ/ha, đạt 95,1% kế hoạch, giảm 2,2%; lạc 21,2 tạ/ha, đạt 93,8%, tăng 1,0%; đậu tương 13,7 tạ/ha, đạt 85,6%, giảm 11,6%; mía 610,2 tạ/ha, đạt 89,7% kế hoạch, tăng 3,9% so với cùng kỳ… Tổng sản lượng lương thực có hạt cả năm 2018 đạt 1.610 nghìn tấn, đạt 98,5% kế hoạch và giảm 4,7% so với năm 2017.
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến ngày 15/12/2018, toàn tỉnh đã cơ bản hoàn thành kế hoạch sản xuất vụ đông năm 2018 - 2019. Tổng diện tích gieo trồng đạt 50 nghìn ha, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2017; trong đó, cây ngô 17.962 ha, tăng 21,6%; cây lạc 1.389 ha, tăng 4,6%; cây khoai lang 3.872 ha, tăng 11,4%; cây đậu tương 733 ha, tăng 64,0%; rau mầu và các cây trồng khác 22.499 ha, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm 2017.
b. Chăn nuôi
Công tác phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm được tập trung chỉ đạo thường xuyên; năm 2018, toàn tỉnh không xảy ra dịch bệnh lớn trên đàn gia súc, gia cầm. Đàn gia súc, gia cầm ổn định và phát triển, giá bán thịt lợn hơi tăng nên đàn lợn có xu hướng tăng.
Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại thời điểm 01/10/2018, tổng đàn trâu 198 nghìn con, giảm 1,3%; đàn bò 254,9 nghìn con, tăng 0,5%; đàn lợn 813,8 nghìn con, tăng 3,7%; gia cầm 19,7 triệu con, tăng 4,9% so với cùng thời điểm năm trước.
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2018 ước đạt 230,9 nghìn tấn, đạt 98,3% kế hoạch, tăng 3,7% so với năm 2017. Trong đó, thịt trâu hơi 14,2 nghìn tấn, tăng 0,9% (quý III tăng 0,4%, quý IV tăng 1,1%); thịt bò hơi 18,5 nghìn tấn, tăng 8,9% (quý III tăng 7,7%, quý IV tăng 9,0%); thịt lợn hơi 137,8 nghìn tấn, tăng 1,5% (quý III tăng 1,2%, quý IV tăng 1,7%); thịt gia cầm giết bán 46,9 nghìn tấn, tăng 7,7% (quý III tăng 7,4%, quý IV tăng 8,3%). Sản lượng trứng gia cầm năm 2018 ước đạt 141,7 triệu quả, tăng 4,7% so với năm 2017 (quý III tăng 3,3%, quý IV tăng 4,9%). Sản lượng sữa bò tươi năm 2018 ước đạt 18,9 nghìn tấn, tăng 67,0% so với năm 2017 (quý III tăng 45,5%, quý IV tăng 64,3%)
2.2. Lâm nghiệp
Năm 2018, được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của các ngành chức năng, sự cố gắng của các chủ dự án, hộ lâm nghiệp, nên kết quả sản xuất lâm nghiệp tăng khá so cùng kỳ. Ước tính năm 2018, diện tích trồng rừng tập trung 10.560 ha, vượt 5,6% kế hoạch, tăng 0,6% so với cùng kỳ (quý III giảm 6,5%, quý IV tăng 22,5%); trồng cây phân tán 1,8 triệu cây, giảm 10,8%; diện tích rừng được chăm sóc 42 nghìn ha, giảm 1,3%,... Khai thác lâm sản: Gỗ 620,6 nghìn m3, tăng 7,4% so với cùng kỳ; tre luồng 51,3 triệu cây, tăng 4,2%; nứa nguyên liệu 74,8 nghìn tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ,…
Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã sản xuất được 17 triệu cây giống lâm nghiệp các loại, trong đó 9,2 triệu cây giống đủ tiêu chuẩn xuất vườn phục vụ trồng rừng trên địa bàn tỉnh.
Công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng thường xuyên được quan tâm chỉ đạo, các ngành chức năng luôn phối hợp với các địa phương và ban quản lý dự án tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên, do thời tiết nắng nóng, hanh khô kéo dài nên ngày 06/7/2018 đã xảy ra 1 vụ cháy rừng tại xã Châu Lộc, huyện Hậu Lộc và khu vực liền kề thuộc thôn Chà Là, xã Hoằng Khánh, huyện Hoằng Hóa, diện tích cháy 11,4 ha; 1 vụ cháy thực bì dưới tán rừng tại xã Hoằng Trung, huyện Hoằng Hóa, diện tích cháy 0,03 ha, không gây thiệt hại đến tài nguyên rừng. Cả 2 vụ cháy rừng không gây thiệt hại về người; ngay sau khi phát hiện cháy rừng, các lực lượng chức năng đã kịp thời phối hợp với người dân địa phương dập tắt hoàn toàn đám cháy.
2.3. Thuỷ sản
Năm 2018, thời tiết tương đối thuận lợi cho việc khai thác, đánh bắt thuỷ sản; mặt khác, ngư dân đã đầu tư nâng cấp, đóng mới, thay mới và cải hoán nhiều tàu thuyền có công suất lớn, phục vụ cho việc đánh bắt xa bờ; nên kết quả sản xuất thuỷ sản tăng so với cùng kỳ. Sản lượng thủy sản đạt 170,5 nghìn tấn, vượt 8,0% kế hoạch, tăng 7,1% so với cùng kỳ (quý III tăng 7,8%, quý IV tăng 8,0%); trong đó, sản lượng nuôi trồng 53,6 nghìn tấn, đạt 99,7% kế hoạch, tăng 7,0% (quý III tăng 7,8%, quý IV tăng 5,1%); sản lượng khai thác 116,9 nghìn tấn, vượt 1,2%, tăng 7,2% (quý III tăng 7,8%, quý IV tăng 9,4%), riêng khai thác xa bờ 55,9 nghìn tấn, tăng 7,3% so với cùng kỳ.
Thực hiện Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thuỷ sản, hiện nay toàn tỉnh đã đóng mới, nâng cấp và đưa vào hoạt động khai thác 58 tàu (gồm 23 tàu vỏ thép và 35 tàu vỏ gỗ).
3. Sản xuất công nghiệp
Năm 2018, năng lực sản xuất của ngành công nghiệp do có thêm một số doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hoàn thành đầu tư đi vào sản xuất kinh doanh cuối năm 2017 và những tháng đầu năm 2018; đặc biệt Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn tiến hành chạy thử và có sản phẩm thương mại từ đầu tháng Năm và chính thức vận hành thương mại vào ngày 15/11/2018, đã đóng góp lớn cho tăng trưởng của ngành công nghiệp, tạo ra bước tăng trưởng đột biến về thu ngân sách nhà nước và là động lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội của tỉnh.
Chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành ước tính tháng 12/2018 tăng 6,68% so với tháng trước, tăng 53,92% so với tháng cùng kỳ; trong đó, công nghiệp khai khoáng tăng 2,31% so với tháng trước, giảm 5,06% so với tháng cùng kỳ; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,85% so với tháng trước, tăng 59,10% so với tháng cùng kỳ; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 4,60% so với tháng trước, tăng 7,94% so với tháng cùng kỳ; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,02% so với tháng trước, tăng 5,64% so với tháng cùng kỳ. Tính chung cả năm 2018, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 34,88% so với năm 2017; trong đó, công nghiệp khai khoáng tăng 2,61%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 37,63%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 10,90%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,97% so cùng kỳ.
Chỉ số sản xuất công nghiệp chia theo 4 quý trong năm 2018: Toàn ngành công nghiệp, quý I tăng 11,44%; quý II tăng 25,38%; quý III tăng 48,32%; quý IV tăng 52,18% so với cùng kỳ năm 2017. Công nghiệp khai khoáng, quý I tăng 6,90%; quý II tăng 9,68%; quý III giảm 2,99%; quý IV giảm 1,61% so với cùng kỳ năm 2017. Công nghiệp chế biến, chế tạo, quý I tăng 10,97%; quý II tăng 27,30%; quý III tăng 51,30%; quý IV tăng 58,18% so với cùng kỳ năm 2017. Sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí, quý I tăng 17,17%; quý II tăng 10,27%; quý III tăng 19,79%; quý IV tăng 0,76% so với cùng kỳ năm 2017. Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải, quý I tăng 6,73%; quý II tăng 9,14%; quý III tăng 5,86%; quý IV tăng 6,12% so với cùng kỳ năm 2017.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12/2018 dự kiến giảm 0,28% so với tháng trước, tăng 0,94% so với tháng cùng kỳ. Tính chung cả năm 2018, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,68% so với cùng kỳ.
Chỉ số tồn kho tháng 12/2018 của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dự kiến tăng 10,59% so với tháng 11/2018; giảm 11,23% so với tháng 12/2017.
Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng 12 năm 2018 tăng 2,15% so với tháng trước; tăng 12,06% so với tháng cùng kỳ; trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước giữ như tháng trước; tăng 2,03% so với tháng cùng kỳ; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 1,04% so với tháng trước; tăng 1,97% so với tháng cùng kỳ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,82% so với tháng trước; tăng 17,86% so với tháng cùng kỳ. Tính chung cả năm 2018, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tăng 8,45% so với năm 2017; trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,76%; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 9,45%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,91% so với năm 2017.
4. Hoạt động của doanh nghiệp
Phát triển doanh nghiệp năm 2018 tiếp tục được đẩy mạnh và đạt kết quả tích cực, tính từ đầu năm đến ngày 15/12/2018, thành lập mới 3.222 doanh nghiệp, vượt kế hoạch và xếp thứ 7 cả nước về số doanh nghiệp thành lập mới; tổng vốn điều lệ đăng ký mới đạt 17,5 nghìn tỷ đồng; so với cùng kỳ năm 2017, tăng 4,0% về số doanh nghiệp và tăng 6,4% về vốn đăng ký. Số doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2018 đã giải quyết việc làm cho 32 nghìn lao động, tăng 19,0% so với năm 2017.
5. Đầu tư và xây dựng
Kế hoạch vốn đầu tư công năm 2018 từ nguồn cân đối ngân sách tỉnh, vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương và trái phiếu Chính phủ do tỉnh quản lý đã được Chủ tịch UBND tỉnh giao chi tiết cho các chủ đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư giải ngân và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Tuy nhiên, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh so với năm 2017, nguyên nhân chủ yếu do Dự án Lọc hóa dầu Nghi Sơn đã hoàn thành giai đoạn đầu tư xây dựng, tiến hành chạy thử và có sản phẩm thương mại đầu tháng 5/2018. Ước tính năm 2018, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 85.237,8 tỷ đồng, giảm 0,6% so với cùng kỳ (quý III giảm 8,2%, quý IV giảm 2,5%); trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 10.295,8 tỷ đồng, tăng 9,6% (quý III giảm 0,4%, quý IV tăng 15,4%); vốn trái phiếu Chính phủ 1.317,1 tỷ đồng, giảm 27,7% (quý III giảm 20,5%, quý IV giảm 13,6%); vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước 4.768,2 tỷ đồng, tăng 87,0% (quý III tăng 71,8%, quý IV gấp 2,14 lần); vốn vay từ các nguồn khác của khu vực nhà nước 3.404,6 tỷ đồng, tăng 7,6% (quý III tăng 7,2%, quý IV giảm 7,6%); vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 47.202,5 tỷ đồng, tăng 11,2% (quý III tăng 0,9%, quý IV tăng 6,4%); vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 14.329,9 tỷ đồng, giảm 38,8% so với năm 2017 (quý III giảm 41,1%, quý IV giảm 41,6%).
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước địa phương năm 2018 ước đạt 6.360,7 tỷ đồng, vượt 1,1% kế hoạch năm và tăng 31,5% so với năm 2017 (quý III tăng 25,7%, quý IV tăng 31,5%); bao gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 3.004,5 tỷ đồng, tăng 46,7% so với cùng kỳ (quý III tăng 43,4%, quý IV tăng 51,3%); vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện 1.781,2 tỷ đồng, tăng 17,1% so với cùng kỳ (quý III tăng 7,4%, quý IV tăng 16,5%); vốn ngân sách Nhà nước cấp xã 1.575,1 tỷ đồng, tăng 24,4% so với cùng kỳ (quý III tăng 19,5%, quý IV tăng 19,1%).
Các dự án lớn khởi công trong năm 2018 gồm: Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn II, Dự án số 1 - Khu đô thị mới trung tâm thành phố Thanh Hóa; Khu đô thị Đông Hải (thành phố Thanh Hóa); Nhà máy điện mặt trời (huyện Yên Định); Nhà máy giết mổ, chế biến gia cầm xuất khẩu Việt Avis (huyện Hoằng Hóa),…
Các dự án lớn hoàn thành trong năm 2018 gồm: Khu đô thị mới phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa; Nhà máy Thủy điện Cẩm Thủy 1; Nhà máy sản xuất Bao bì Đại Dương; Khoa nội A và Trung tâm huyết học - Truyền máu Bệnh viên đa khoa tỉnh,…
6. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Năm 2018, tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 22.276 tỷ đồng, vượt 2,1% dự toán, tăng 66,8% so với cùng kỳ (quý I giảm 7,6%, quý II tăng 52,0%, quý III gấp 2,1 lần, quý IV tăng 93,6%). Nguyên nhân thu ngân sách Nhà nước quý III và quý IV tăng cao so với cùng kỳ là do Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn chạy thử và có sản phẩm thương mại từ tháng 5, tháng 11 chính thức vận hành thương mại. Riêng thu nội địa đạt 15.658 tỷ đồng, vượt 19,1% dự toán, tăng 36,1% so cùng kỳ. Các khoản thu chủ yếu tăng so cùng kỳ như: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gấp 2,7 lần; thu thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh tăng 20,4%; lệ phí trước bạ tăng 25,3%; thu phí và lệ phí tăng 12,7%; thu khác ngân sách tăng 22,4%; thu thuế bảo vệ môi trường tăng 71,9% so với cùng kỳ; riêng thu từ tiền sử dụng đất tăng 35,0%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu gấp 3,6 lần so với cùng kỳ, thu hoạt động xuất nhập khẩu tăng cao do nhập khẩu dầu thô.
Chi ngân sách địa phương năm 2018 ước đạt 30.562 tỷ đồng, vượt 9,2% dự toán, giảm 6,2% so với cùng kỳ (quý I giảm 3,1%, quý II tăng 32,5%, quý III tăng 0,8%; quý IV giảm 29,3%); trong đó, chi đầu tư phát triển giảm 21,6%; chi thường xuyên tăng 8,0%; chi khác giảm 47,7% so với cùng kỳ.
7. Hoạt động ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh Thanh Hóa tập trung chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện quy định về hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng, các chính sách tiền tệ, đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả, triển khai thực hiện tốt chương trình tín dụng của Chính phủ, đẩy mạnh cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp nông thôn, thủy sản, doanh nghiệp, bảo đảm nhu cầu vay vốn của các đối tượng chính sách... Lãi suất huy động có kỳ hạn bằng VND của các tổ chức tín dụng phổ biến từ 4,3 đến 7,3%/năm; lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường khác bằng VND phổ biến từ 6,8 đến 11%/năm. Ước tính đến 31/12/2018, tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng (không bao gồm Ngân hàng Phát triển) đạt 85 nghìn tỷ đồng, tăng 17,5% so với năm 2017; tổng dư nợ (không bao gồm Ngân hàng Phát triển) đạt 105 nghìn tỷ đồng, tăng 16,0% so với năm 2017.
8. Thương mại, giá cả, vận tải, du lịch và xuất nhập khẩu
8.1. Doanh thu bán lẻ hàng hóa
Hoạt động thương mại, dịch vụ năm 2018 trên địa bàn tỉnh khá sôi động, các mặt hàng thiết yếu được cung ứng đầy đủ về số lượng và đa dạng về mẫu mã, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất cũng như đời sống của nhân dân. Công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường giá cả trên địa bàn được tăng cường, góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại, kích thích sức mua của người tiêu dùng.
Tháng 12, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 7.112 tỷ đồng, tăng 2,2% so với tháng trước, tăng 13,0% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2018, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 79.728 tỷ đồng, tăng 13,5% so với cùng kỳ (quý I tăng 12,3%, quý II tăng 12,9%, quý III tăng 13,8%; quý IV tăng 15,1% ); trong đó ngành hàng lương thực, thực phẩm tăng 13,8%; may mặc tăng 18,9%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 12,5%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 15,8%; phương tiện đi lại tăng 7,2%; xăng dầu tăng 19,8% so với cùng kỳ...
8.2. Hoạt động lưu trú và ăn uống
Tháng 12, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước đạt 881,5 tỷ đồng, tăng 2,1% so với tháng trước, tăng 10,3% so với tháng cùng kỳ, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú 163,7 tỷ đồng, tăng 0,7% và tăng 9,3%; doanh thu ăn uống 717,7 tỷ đồng, tăng 2,4% và tăng 10,6%; doanh thu du lịch lữu hành đạt 9,3 tỷ đồng, tăng 1,9% và tăng 8,2%; doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác đạt 385,2 tỷ đồng, tăng 1,6% và tăng 12,7%. Tính chung cả năm 2018, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 10.093 tỷ đồng, tăng 11,5% so với năm 2017 (quý I tăng 12,7%, quý II tăng 11,9%, quý III tăng 11,5%, quý IV tăng 10,2%); trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 2.049,7 tỷ đồng, tăng 9,6%, doanh thu ăn uống đạt 8.043,5 tỷ đồng, tăng 12,0%; doanh thu du lịch lữu hành đạt 113,6 tỷ đồng, tăng 9,2%; doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác đạt 4.339 tỷ đồng, tăng 12,6%. Trong năm, Công ty Cổ phần Vinpearl chính thức khai trương Vinpearl Hotel Thanh Hóa tại số 27 đường Trần Phú, phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa, gồm 33 tầng nổi và 2 tầng hầm, với quy mô 295 phòng nghỉ, phòng hội nghị có sức chứa gần 1.000 khách, được trang bị nội thất hiện đại tiêu chuẩn quốc tế kèm các dịch vụ tiêu chuẩn 5 sao.
8.3. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Tháng 12, giá xăng dầu, gas tiếp tục điều chỉnh giảm; một số mặt hàng thực phẩm như: thịt lợn, thịt gia cầm, rau củ quả tươi... giảm so với tháng trước; giá lúa gạo, hàng may mặc, mũ nón và giầy dép do thời tiết chuyển mùa tăng so với tháng trước đã tác động đến chỉ số giá tiêu dùng trong tháng. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2018 giảm 0,40% so với tháng trước. Trong 11 nhóm có Năm nhóm hàng hóa có chỉ số giá giảm là: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,32% (lương thực tăng 0,52%, thực phẩm giảm 0,62%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm 1,18%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,03%; nhóm giao thông giảm 4,18%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,46%. Ba nhóm hàng hóa giá cả ổn định, chỉ số giá không tăng là: nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm giáo dục; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác. Ba nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng là: nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,56%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 5,98% (do giá dịch vụ y tế khám lâm sàng, phí nằm viện và giá dịch vụ kỹ thuật tăng theo Thông tư số 39/2018/TT-BYT ngày 30/11/2018 của Bộ Y tế); nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,12%. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 năm 2018 tăng 3,14% so với tháng 12 năm 2017.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2018 tăng 3,90% so với bình quân năm 2017 (quý I tăng 3,38%, quý II tăng 3,70%, quý III tăng 4,99%, quý IV tăng 3,95%), một số nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng cao là: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,18% (lương thực tăng 6,28%, thực phẩm tăng 4,99%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 4,67%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 8,93% (dịch vụ y tế tăng 12,31%); nhóm giáo dục tăng 8,62% (dịch vụ giáo dục tăng 10,51%). Đây là năm có chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm đạt mức tăng cao trong những năm gần đây (năm 2015 tăng 0,44%; năm 2016 tăng 2,19%; năm 2017 tăng 2,84%).
Chỉ số giá vàng tháng 12/2018 tăng 0,37% so với tháng trước, giảm 0,34% so với tháng 12/217; chỉ số giá đô la Mỹ giảm 0,06% tháng trước, tăng 2,66% so với tháng 12/2017. Bình quân năm 2018, chỉ số giá vàng tăng 2,96% so với năm 2017 (bình quân quý IV tăng 3,31%), chỉ số giá đô la Mỹ tăng 1,26% so với năm 2017 (bình quân quý IV tăng 1,13%)
8.4. Vận tải hành khách và hàng hóa
Tháng 12, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ ước đạt 858,4 tỷ đồng, tăng 2,1% so với tháng trước, tăng 9,7% so với tháng cùng kỳ; khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 4.896 nghìn tấn, tăng 2,0% so với tháng trước, tăng 6,6% so với tháng cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển 223 triệu tấn.km tăng 1,6% so với tháng trước, tăng 0,01% so với tháng cùng kỳ; khối lượng hành khách vận chuyển đạt 3,7 triệu người, tăng 2,0% so với tháng trước, tăng 8,8% so với tháng cùng kỳ; khối lượng hành khách luân chuyển đạt 222 triệu người.km, tăng 2,1% so với tháng trước, tăng 9,0% so với tháng cùng kỳ.
Tính chung cả năm 2018, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ ước đạt 9.656,6 tỷ đồng, tăng 9,4% so với năm 2017 (quý I tăng 10,0%, quý II tăng 9,8%, quý III tăng 8,4%, quý IV tăng 9,4%), trong đó doanh thu vận tải hàng hóa đạt 5.853 tỷ đồng, tăng 3,4%, doanh thu vận tải hành khách đạt 3.361 tỷ đồng, tăng 21,3%, doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 442 tỷ đồng, tăng 11,5%. Khối lượng vận chuyển hàng hoá đạt 55,7 triệu tấn, luân chuyển hàng hoá đạt 2.704 triệu tấn.km, tăng 6,6% về hàng hoá vận chuyển, tăng 0,2% về hàng hoá luân chuyển so với cùng kỳ. Vận chuyển hành khách đạt 43,9 triệu người, luân chuyển hành khách đạt 2.606 triệu người.km, tăng 10,6% về hành khách vận chuyển, tăng 10,7% về hành khách luân chuyển so với cùng kỳ.
8.5. Xuất, nhập khẩu
Tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu năm 2018 ước đạt 2.744,5 triệu USD, tăng 45,3% so với cùng kỳ. Trong đó, giá trị xuất khẩu chính ngạch 2.700,2 triệu USD, tăng 46,2%; tiểu ngạch 44,3 triệu USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ. Mặt hàng xuất khẩu chính ngạch tăng khá so với cùng kỳ gồm: Dưa chuột đóng hộp 345 tấn, tăng 27,8%; hải sản khác 12,8 nghìn tấn, tăng 6,7%; chả cá Surimi 4,3 nghìn tấn, gấp 2,3 lần; thuốc lá bao 5,7 triệu bao, gấp 2,6 lần; dăm gỗ 356 nghìn m3, tăng 5,2%; hàng may mặc 229,2 triệu sản phẩm, tăng 29,2%; giầy dép các loại 102,1 triệu đôi, tăng 46,1%; xi măng 483,9 nghìn tấn, tăng 44,0%; 116 triệu lít xăng A95; 89,7 nghìn tấn lưu huỳnh dạng hạt; 233,7 nghìn tấn Polypropylen,...
Tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu năm 2018 ước đạt 3.873,5 triệu USD, gấp 3,4 lần so với cùng kỳ. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu gồm: Nguyên phụ liệu sản xuất thuốc tân dược 6,5 triệu USD; dầu thô 4.736 nghìn tấn; vải may mặc 501,9 triệu USD; phụ liệu hàng may mặc 92,2 triệu USD; phụ liệu giầy dép 349,1 triệu USD; máy móc thiết bị và phương tiện khác 280,3 triệu USD,...
9. Một số vấn đề xã hội
9.1. Đời sống dân cư và an sinh xã hội
Năm 2018, đời sống nhân dân cơ bản ổn định. Công tác an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh được thực hiện đầy đủ, kịp thời; chi trả trợ cấp ưu đãi hàng tháng đúng thời gian, đúng chế độ cho hơn 78 nghìn người có công với tổng kinh phí 1.187 tỷ đồng. Các hoạt động thăm hỏi, động viên, tặng quà và tri ân người có công đã được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm thực hiện rộng rãi trên địa bàn tỉnh, đã có hơn 301.568 lượt người có công và thân nhân được nhận quà của Chủ tịch nước và quà của tỉnh, nhân dịp tết Nguyên đán Mậu Tuất 2018 và kỷ niệm 71 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ với tổng kinh phí trên 89 tỷ đồng. Trợ cấp thường xuyên cho trên 206 nghìn đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng đảm bảo kịp thời, đúng quy định. Thực hiện tốt công tác chúc thọ và tặng quà nhân dịp Tết Nguyên đán Mậu Tuất 2018 cho 55.719 người cao tuổi với kinh phí trên 11 tỷ đồng; tổ chức kiểm tra, tổng hợp tình hình đời sống nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán và thời kỳ giáp hạt đầu năm 2018 trình UBND tỉnh đề nghị Trung ương hỗ trợ 1.065 kg gạo cho 23.192 hộ dân trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên do diễn biến thời tiết phức tạp, nắng nóng kéo dài, mưa nhiều gây lũ ống, lũ quét xảy ra ở một số địa phương trong tỉnh, làm thiệt hại về nhà cửa và hoa màu,... đã ảnh hưởng đến đời sống một bộ phận dân cư, nhất là khu vực miền núi và nông thôn. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2018 (theo chuẩn mới nghèo đa chiều) ước còn 5,84%, giảm 2,59% so với năm 2017 (tỷ lệ hộ nghèo năm 2017 là 8,43%), đạt mục tiêu đề ra.
9.2. Dân số, lao động, việc làm
Dân số trung bình năm 2018 ước đạt 3.558,15 nghìn người, tăng 13,69 nghìn người so với năm 2017, tốc độ tăng dân số 0,39%. Năm 2018, sắp xếp được khoảng 68,8 nghìn lao động có việc làm mới, vượt 2,7% kế hoạch, tăng 5,0% so với năm 2017; trong đó, lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 10,02 nghìn người, vượt 0,2% kế hoạch, tăng 0,2% so với năm 2017.
Năm 2018, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước đạt 2.273,65 nghìn người, tăng 0,51% so với năm 2017; lao động đang làm việc 2.167,34 nghìn người, giảm 2,1% so với năm 2017; trong đó, lao động đang làm việc trong các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản 1.020,5 nghìn người, giảm 4,67%; lao động đang làm việc trong ngành công nghiệp, xây dựng 584,6 nghìn người, tăng 0,37%; lao động đang làm việc trong các ngành dịch vụ 562,24 nghìn người, tăng 0,27% so với năm 2017.
9.3. Y tế
Năm 2018, ngành Y tế đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; công tác y tế dự phòng được tăng cường, vật tư, hoá chất được cung cấp đầy đủ cho các đơn vị để chủ động phòng, chống, khoanh vùng và có biện pháp xử lý, chữa trị kịp thời; trên địa bàn tỉnh không có dịch bệnh lớn xảy ra. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh vẫn phát sinh một số bệnh thông thường: Đến ngày 15/12/2018 toàn tỉnh ghi nhận 171 ca sốt xuất huyết, 262 ca SPB nghi sởi, 665 ca chân tay miệng, 43 ca viêm não vi rút, 2 ca mắc bệnh dại, 11 bệnh nhân ho gà, 9 bệnh nhân uốn ván…; phát hiện và khống chế thành công 7 ổ dịch ở các huyện Quan Sơn, Bá Thước, Thường Xuân, Nông Cống và Hoằng Hóa.
Công tác phòng chống HIV/AIDS được đẩy mạnh, toàn tỉnh ghi nhận 176 ca nhiễm HIV mới, lũy kế số người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện đến hết tháng 10/2018 là 8.180 người, trong đó số người nhiễm HIV còn sống được quản lý là 4.128 người (3.485 người Thanh Hóa và 643 người ngoại tỉnh). Hiện có 3.814 người nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị bằng thuốc kháng virus ARV tại 29 cơ sở điều trị (27 bệnh viện đa khoa huyện, 01 cơ sở đặt tại Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS và 01 cơ sở nằm trong Bệnh viện đa khoa tỉnh). Toàn tỉnh đã triển khai cung cấp dịch vụ điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone cho 26 cơ sở điều trị và 15 điểm cấp phát thuốc tại 23 huyện trong tỉnh. Số bệnh nhân hiện đang điều trị bằng thuốc Methadone là 2.707 bệnh nhân.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được chú trọng, ngành Y tế tham mưu cho Ban chỉ đạo Quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm tỉnh tổ chức Lễ phát động Tháng hành động vì an toàn thực phẩm năm 2018 quy mô cấp tỉnh. Tính từ đầu năm đến nay, đã tổ chức kiểm tra 320 cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm, xử lý 46 cơ sở vi phạm, phạt vi phạm 220 triệu đồng.
Dự kiến năm 2018, tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế (tiêu chí mới giai đoạn 2011 - 2020) đạt 79,5%, vượt kế hoạch và tăng 3,9% so với năm 2017.
9.4. Giáo dục - Đào tạo
Năm học 2017 - 2018, ngành Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa đã hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học, kết quả giáo dục được nâng lên. Kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2018 diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế; kết quả có 32.869/33.725 thí sinh đỗ tốt nghiệp THPT, đạt tỷ lệ 97,46% (tăng 0,03% so với năm 2017). Chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục duy trì và có bước đột phá cả về số lượng và chất lượng; kết quả các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, khu vực và quốc tế, Thanh Hóa liên tục trong tốp đầu của cả nước. Trong kỳ thi học sinh giỏi THPT Quốc gia, Thanh Hóa đạt 64 giải, trong đó có 6 giải nhất, xếp thứ 4 toàn quốc về số học sinh đạt giải nhất; tham gia dự thi Olympic quốc tế, đạt 03 huy chương (01 huy chương Vàng môn Sinh học; 01 Huy chương Vàng môn Vật lý; 01 huy chương Bạc môn Hóa học); dự thi khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đạt 03 huy chương (01 huy chương Vàng môn Vật lý, 01 huy chương Bạc môn Tin học; 01 huy chương Đồng môn Vật lý). Đây là năm học tỉnh Thanh Hóa có số lượng học sinh đạt huy chương Olympic quốc tế và Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nhiều nhất từ trước đến nay, trong đó lần đầu tiên đoạt huy chương Vàng Olympic quốc tế môn Sinh học; một học sinh đoạt 02 huy chương Vàng.
Sáng ngày 05/9, hơn 824 nghìn học sinh các cấp học phổ thông trên địa bàn toàn tỉnh bước vào khai giảng năm học mới 2018 - 2019. So với các năm học trước, quy mô học sinh các cấp học đều tăng, trong đó cấp tiểu học tăng nhiều nhất với khoảng hơn 20 nghìn học sinh.
Dự kiến đến hết năm 2018, toàn tỉnh có 1.396/2.049 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 68,1%, tăng 8,1% so với cùng kỳ; trong đó: Mầm non 411 trường, tăng 12,0% so với cùng kỳ (tăng 44 trường); Tiểu học 565 trường, tăng 2,2% so với cùng kỳ (tăng 12 trường); THCS 390 trường, tăng 19,6% so cùng kỳ (tăng 64 trường) và THPT 30 trường, tăng 25,0% so cùng kỳ(tăng 6 trường).
Năm 2018, Trường Đại học Hồng Đức tuyển sinh đào tạo 33 ngành Đại học, 6 ngành Cao đẳng với tổng số 1.590 chỉ tiêu; Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch là 990 chỉ tiêu tuyển sinh ở 17 chuyên ngành; CaoY tế Thanh Hóa là 1.200 chỉ tiêu ở 5 chuyên ngành đạo. Đến nay, các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh đã kết thúc xét tuyển đợt 1 và đợt 2. Đại học Hồng Đức xét tuyển đợt 1 được 1.120/1.590 thí sinh, đạt 70,44% so với kế hoạch, tăng 2,14% so với năm trước; Đại học Văn hoá, Thể thao và Du lịch đồng thời thực hiện 2 phương thức xét tuyển: dựa vào kết quả kỳ thi THPT Quốc gia và xét tuyển học bạ THPT, xét tuyển đợt 1 và đợt 2 được 305 thí sinh, đạt 30,81% so với kế hoạch, tăng so với cùng kỳ năm trước là 189 thí sinh (2,6 lần); Cao đẳng Y tế Thanh Hoá xét tuyển đợt 1 và đợt 2 được 534 thí sinh, đạt 44,5% so với kế hoạch, tăng 201 thí sinh so với cùng kỳ năm trước.
9.5. Văn hoá - Thể dục thể thao
Năm 2018, ngành Văn hoá thông tin, Truyền thông tổ chức tuyên truyền các chủ chương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các sự kiện chính trị, các ngày kỷ niệm, lễ, tết và các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, diễn ra sôi nổi. Các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp đã triển khai dàn dựng và biểu diễn các chương trình, tiết mục phục vụ các tầng lớp nhân dân, mừng Đảng, mừng Xuân Mậu Tuất 2018; phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị. Tham gia Hội diễn sân khấu Kịch nói toàn quốc năm 2018 tại thành phố Hồ Chí Minh, đạt 01 HCV, 01 HCB; Liên hoan ca múa nhạc toàn quốc năm 2018 tại tỉnh Cao Bằng, đạt 02 HCV, 02 HCB.
Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tiếp tục đẩy mạnh, chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được nâng cao. Tính từ đầu năm đến hết tháng 11/2018, toàn tỉnh có 37 làng, thôn, bản, tổ dân phố đăng ký xây dựng văn hóa, đạt 52,9% kế hoạch; 107 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đăng ký xây dựng đạt chuẩn văn hóa, đạt 66,9% kế hoạch; 17 xã đăng ký xây dựng xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, đạt 85% kế hoạch; 01 phường, thị trấn đăng ký xây dựng đạt chuẩn văn minh đô thị, đạt 50% kế hoạch năm 2018.
Phong trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì và đẩy mạnh; tính từ đầu năm đến nay, đã tổ chức 11 giải cấp tỉnh, 112 giải cấp huyện, 1.023 giải cấp xã/phường, phát động ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 2018 với hơn 6.000 người tham gia; phối hợp tổ chức giải Marathon băng rừng quốc tế tại huyện Bá Thước; đón, tiễn đoàn đua Xe đạp toàn quốc tranh Cup truyền hình thành phố Hồ Chí Minh lần thứ 30 năm 2018. Số người luyện tập thể dục thể thao thường xuyên chiếm 39,5% dân số, gia đình thể thao đạt 28,2% số hộ; toàn tỉnh hiện có 3.375 CLB thể dục thể thao.
Thể thao thành tích cao tiếp tục được quan tâm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức gặp mặt, biểu dương các VĐV Thanh Hóa có thành tích xuất sắc trong thi đấu tại vòng Chung kết giải Bóng đá U23 Châu Á. Đăng cai tổ chức giải Cờ vua - Cờ tướng các nhóm tuổi Miền Trung mở rộng lần thứ XVI năm 2018; giải Vô địch CLB Pencaksilat toàn quốc và giải Vô địch bóng rổ 3x3 quốc gia tại Thanh Hóa. Tham gia đoàn thể thao Việt Nam tại ASIAD 18 có 2 HLV, 11 VĐV dự thi các môn bóng đá, bóng chuyền, điền kinh, pencaksilat, cầu mây, vật tự do, judo, đạt 3 HCB, 5 HCĐ. Tính từ đầu năm đến nay, thể thao thành tích cao Thanh Hoá tham gia thi đấu 79 giải quốc gia, quốc tế đạt 562 huy chương các loại, gồm: 186 huy chương Vàng, 177 huy chương Bạc, 212 huy chương Đồng. Kết thúc Giải Vô địch quốc gia Nuti Café V.League 2018, Đội bóng đá FLC Thanh Hoá đạt 46 điểm, giành ngôi vị Á quân.
9.6. Tai nạn giao thông
Công an giao thông, Thanh tra giao thông, phối hợp với các ngành, các địa phương huy động lực lượng, phương tiện, triển khai đồng bộ các biện pháp công tác, bố trí lực lượng, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm an toàn giao thông. Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, năm 2018 (tính từ đầu năm đến ngày 15/11/2018) trên địa bản tỉnh xảy ra 471 vụ tai nạn giao thông, giảm 7,8% so với cùng kỳ, làm chết 155 người, giảm 0,6% so với cùng kỳ; bị thương 389 người, giảm 7,2% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, quý I xảy ra 160 vụ, làm chết 39 người, bị thương 137 người; quý II xảy ra 74 vụ, làm chết 26 người, bị thương 55 người; quý III xảy ra 120 vụ, làm chết 48 người, bị thương 107 người; quý IV xảy ra 117 vụ, làm chết 42 người, bị thương 80 người.
9.7. Thiệt hại do thiên tai
Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã xảy ra 9 đợt thiên tai, làm chết 15 người, mất tích 6 người, bị thương 5 người, thiệt hại về tài sản ước tính sơ bộ trên 2.000 tỷ đồng. Đặc biệt nghiêm trọng là đợt mưa, lũ xảy ra từ ngày 28 đến ngày 31/8, do ảnh hưởng của rãnh áp thấp, ở hầu hết các khu vực trên địa bàn tỉnh đã có mưa vừa đến mưa to, nhiều nơi mưa rất to; cùng với mưa, lũ, nước trên thượng nguồn Sông Mã lên nhanh. Tại các huyện Mường Lát, Quan Sơn, Quan Hóa, Bá Thước, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Vĩnh Lộc, Yên Định đã bị ngập lụt trên diện rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống, sinh hoạt của nhân dân, làm 12 người chết và mất tích, 2 người bị thương, hơn 13 nghìn ngôi nhà bị ngập trong nước, 800 ngôi nhà bị đổ sập, bị cuốn trôi hoặc hư hỏng nặng, 318 ngôi nhà đang trong tình trạng nguy hiểm phải di dời; hàng nghìn ha lúa, hoa màu bị ngập, hàng trăm nghìn gia súc, gia cầm bị chết, cuốn trôi; nhiều tuyến đường giao thông huyết mạch, trường học, trạm y tế, công trình công cộng, hệ thống thông tin viễn thông bị hư hại nặng nề.
Ngay sau mỗi đợt thiên tai xảy ra, các địa phương đã huy động lực lượng dân quân cùng với bà con nhân dân nhanh chóng khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra; lãnh đạo tỉnh và các địa phương bị thiệt hại đã trực tiếp xuống cơ sở động viên thăm hỏi, trao quà hỗ trợ và chỉ đạo chính quyền xã, thôn, bản khẩn trương giúp đỡ người dân khắc phục nhà cửa bị hư hại, sớm ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban MTTQ tỉnh Thanh Hóa, nhiều địa phương, đơn vị, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh đã dành cho đồng bào vùng bị thiệt hại do lũ lụt sự giúp đỡ về tinh thần, vật chất để góp phần nhanh chóng khôi phục sản xuất, ổn định đời sống. Theo số liệu thống kê của Ủy ban MTTQ tỉnh, tính đến ngày 17/10/2018, các tổ chức, cá nhân, nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh đăng ký ủng hộ qua Quỹ cứu trợ do Ủy ban MTTQ tỉnh quản lý 8,92 tỷ đồng, nâng tổng số tiền quỹ lên gần 16,763 tỷ đồng. Từ nguồn quỹ trên, Ủy ban MTTQ tỉnh đã chi 11,197 tỷ đồng hỗ trợ các huyện bị thiệt hại do lũ lụt (huyện Mường Lát 5 tỷ đồng, Cẩm Thủy 3 tỷ đồng, Quan Hóa 3 tỷ đồng và hỗ trợ 12 gia đình có người chết và mất tích, thăm hỏi các hộ gia đình bị thiệt hại 197 triệu đồng).
9.8. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Môi trường: Tính từ đầu năm đến ngày 15/12/ 2018, phát hiện 108 vụ vi phạm môi trường, xử lý 88 vụ, phạt tiền vi phạm 2.302 triệu đồng.
Cháy nổ: Tính từ đầu năm đến ngày 15/12/ 2018, toàn tỉnh xảy ra 55 vụ cháy nổ, làm 01 người chết, 8 người bị thương, thiệt hại về tài sản 3.349 triệu đồng. Chia theo các quý trong năm, quý I xảy ra 7 vụ cháy nổ, không có người chết và bị thương, thiệt hại về tài sản 390 triệu đồng; quý II xảy ra 15 vụ cháy nổ, làm 01 người chết, 4 người bị thương, thiệt hại về tài sản 1.860 triệu đồng; quý III xảy ra 12 vụ cháy nổ, không có người chết, bị thương 2 người, thiệt hại về tài sản 556 triệu đồng; quý III xảy ra 21 vụ cháy nổ, không có người chết, bị thương 2 người, thiệt hại về tài sản 543 triệu đồng.
Khái quát lại, năm 2018, với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành; đi kèm với đó là những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Mặt khác, các doanh nghiệp cùng toàn thể nhân dân trong tỉnh ra sức thi đua sản xuất lập thành tích chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh; đặc biệt, chính quyền và nhân dân trong tỉnh hết sức vui mừng đón dòng sản phẩm đầu tiên của Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn vào đúng dịp kỷ niệm 132 năm Ngày Quốc tế Lao động; sự kiện quan trọng này được chủ đầu tư, nhà thầu, đối tác trong và ngoài nước, chính quyền và nhân dân Thanh Hóa mong mỏi từ hàng chục năm qua với tâm huyết, nỗ lực, sự hợp tác, môi trường đầu tư thuận lợi để đạt được thành quả này; nên kinh tế tiếp tục tăng trưởng và đạt tốc độ khá cao so với cùng kỳ nhiều năm gần đây, nhiều chỉ tiêu thuộc các lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, thương mại dịch vụ, vận tải, xuất khẩu... tăng so với cùng kỳ. Tuy nhiên, sản xuất vụ đông đạt thấp so với kế hoạch, sản xuất kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp còn gặp khó khăn, tiến độ thực hiện một số dự án trọng điểm chậm, đời sống một bộ phận dân cư còn gặp khó khăn, trật tự an toàn giao thông tuy giảm nhưng còn diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, thiệt hại do thiên tai gây ra là hết sức nặng nề.
Năm 2019 có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu kế hoạch nhiệm kỳ 2015 - 2020. Theo dự báo tình hình thế giới và trong nước có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức đan xen nhau. Ở trong tỉnh, thuận lợi là cơ bản do nhiều dự án lớn, trọng điểm đang được triển khai thực hiện, hoàn thành và đi vào hoạt động, sẽ tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và mở ra nhiều cơ hội thu hút đầu tư vào tỉnh; song vẫn còn gặp những khó khăn, thách thức do năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế còn thấp; công nghệ sản xuất và năng lực quản trị ở nhiều ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp lạc hậu; thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp… Trong bối cảnh đó, để hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 đòi hỏi các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể nhân dân các dân tộc trong tỉnh phải nỗ lực phấn đấu cao hơn, quyết liệt hơn; tiếp tục tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất và tăng cường chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
Một là, thực hiện đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển; tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu các ngành kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tạo chuyển biến tích cực về cơ cấu và chất lượng tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Hai là, tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư nhằm huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Ba là, đẩy nhanh tiến độ thực hiện, sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án trọng điểm, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong năm 2019 và những năm tiếp theo.
Bốn là, khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu các nhóm hàng, mặt hàng là thế mạnh của địa phương, có khả năng cạnh tranh, thị trường ổn định. Tăng cường và thực hiện tốt xúc tiến thương mại, tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Năm là, đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp để doanh nghiệp thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế
Sáu là, nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá - xã hội theo hướng chuẩn hóa và xã hội hóa; thực hiện tốt công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân./.
File đính kèm: SL KT-XH quy IV va nam 2018